Bài giảng Chúa Nhật XXII thường niên – Năm C.
Đừng chọn chỗ nhất mà ngồi,
Khách quí chợt đến, thân tồi rút lui.
Chỗ thấp, an phận, làm vui,
May thời gặp vận, ngóc chui hàng đầu.
Cuộc sống như nước qua cầu,
Hạ mình xuống thấp ngõ hầu tôn lên.
Kiêu ngạo mặt mũi vênh vênh,
Sẽ bị hạ thấp lênh đênh bọt bèo.
Dọn tiệc mời những kẻ nghèo,
Què mù điếc lác bèo nhèo trơ thân.
Không gì đền đáp lòng nhân,
Ông sẽ được hưởng phúc ân của Trời.
Dù cho vật đổi sao dời,
Âm thầm, khiêm tốn không thời nào xưa.
Ngày ngày cầu khẩn thân thưa,
Hạ mình khiêm tốn con chưa thực hành. Amen.
CHÚA NHẬT XXII QUANH NĂM – C.
Sách Huấn Ca 3.17-20,28-29;
Thư Thánh Phaolô gửi tín hữu Do Thái 12.18-19, 22-14
và Phúc Âm Thánh Luca 14. 1,7-14
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca
Một ngày sa-bát kia, Đức Giê-su đến nhà một ông thủ lãnh nhóm Pha-ri-sêu để dùng bữa: họ cố dò xét Người. Người nhận thấy khách dự tiệc cứ chọn cỗ nhất mà ngồi, nên nói với họ dụ ngôn này: “Khi anh được mời đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào cỗ nhất, kẻo lỡ có nhân vật nào quan trọng hơn anh cũng được mời, và rồi người đã mời cả anh lẫn nhân vật kia phải đến nói với anh rằng: ‘Xin ông nhường chỗ cho vị này.’ Bấy giờ anh sẽ phải xấu hổ mà xuống ngồi chỗ cuối. Trái lại, khi anh được mời, thì hãy vào ngồi chỗ cuối, để cho người đã mời anh phải đến nói: ‘Xin mời ông bạn lên trên cho.’ Thế là anh sẽ được vinh dự trước mặt mọi người đồng bàn. Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.” “Khi đãi khách, hãy mời những người nghèo khó”.
Rồi Đức Giê-su nói với kẻ đã mời Người rằng: “Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn tối, thì đừng mời bạn bè, anh em, hay bà con, hoặc láng giềng giàu có, kẻo họ cũng mời lại ông, và như thế ông được đáp lễ rồi. Trái lại, khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì đáp lễ, và như thế, ông mới thật có phúc: vì ông sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại.”
Đó là Lời Chúa! – Lạy Chúa Kitô, ngợi khen Chúa!
I.Giáo huấn Phúc Âm:
Giáo lý Phúc Âm dạy sống khiêm tốn:
Khiêm tốn là chọn chỗ thấp nhất trong đám tiệc: Chỗ ngồi không làm nên giá trị con người, nhưng con người có giá trị tự tại: được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa và được Con Thiên Chúa khiêm tốn sinh làm con người và hy sinh mạng sống mình để mang ơn cứu độ cho con người.
Khiêm tốn là thi ơn mà không mong được đáp trả: Hãy làm bạn và ban ơn bố đức cho hết mọi người, nhất là những người thật sự cần và họ không có cơ hội đáp trả.
II. Diễn giải Phúc Âm:
1. Thói háo danh của người Do Thái, đặc biệt nơi những nhóm chính trị và tôn giáo thời bấy giờ.
Phúc Âm tường thuật rằng: “Đức Giêsu đến nhà một Ông thủ lãnh nhóm Pharisêu để dùng bữa: Họ cố ý dò xét Người… Người nhận thấy khách dự tiệc cứ chọn chỗ nhất mà ngồi, nên Ngài nói với họ dụ ngôn nầy…” Dò xét hay dòm ngó … Tất cả diễn tả tà tâm và ác ý muốn hại người khác. Nuôi ác tâm hại người là bộc lộ tính ganh tị hay hiềm thù. Sự ganh tị nặng nề nhất nơi con người do háo danh và ích kỷ. Người Do Thái, đặc biệt những phe nhóm chính trị và tôn giáo thời bấy giờ rất háo danh, rất chuộng tiếng khen. Họ dò xét và dòm ngó Chúa Giêsu với sự hiềm thù và ganh tị vì Chúa Giêsu đang được dân chúng ngưỡng mộ và muốn suy tôn Ngài làm lãnh tụ.
Một vài phe nhóm chính trị và tôn giáo xôi thịt và háo danh thời Chúa Giêsu thường được đề cập:
Nhóm Sađốc:
Nguyên ngữ Do Thái là tsaddiqim, có nghĩa những người công chính. Tên gọi Sađốc lấy từ tên thượng tế Zadok thời vua Davít (Sách các Vua quyển I, 1:26) lúc đó nhiều người trong nhóm Sađốc là tư tế. Thời Chúa Giêsu họ là những người giàu có và có thế lực cả chính trị cũng như tôn giáo. Hội đồng tôn giáo của đền thờ Giêrusalem cũng như Hội Đồng dân sự Do Thái đều bị chi phối bởi thế lực và tiền bạc của nhóm Sađốc. Điều nầy có thể tìm thấy trong Tông Đồ Công Vụ 4:1; 5;17; 23:6. Họ không tin có sự sống mai sau, không tin có thiên thần hay tinh thần như trong Phúc Âm Matcô 12,18-27; Luca 20:27 và Tông đồ Công Vụ 23,8 diễn tả. Họ và nhóm Pharisêu luôn rình rập để ám hại Chúa Giêsu, nhưng nhóm Sađốc cũng chấp nhận niềm tin truyền khẩu của bè Pharisêu và những mạc khải mới.
Nhóm Pharisêu
Nhóm Pharisêu xuất hiện vào thế kỷ thứ hai trước Chúa Giêsu. Pharisêu trong tiếng Do Thái có nghĩa “được tách biệt” để diễn tả chủ trương giữ luật Môsê thật nhiệm nhặt của nhóm, đặc biệt giữ ngày lễ nghỉ, giữ luật thanh tẩy, luật đóng thuế thập phân và luật kiêng cữ những thức ăn mà họ cho là ô uế.
Đa số thành phần Pharisêu là thứ dân, nhưng cũng khi có cả thành viên Hội Đồng Công Nghi Do Thái như trong Tông Đồ Công Vụ 5:34. Họ không những giữ luật Môsê nhưng cả truyền thống của tiền nhân như được nói trong Matcô 7,1-13 và Matthêô 15,1-20. Những nhà lãnh đạo nhóm được gọi là Rabbi hay sư phụ như trong trường hợp Nicôđêmô trong Gioan 3,1-10; 7:50: 19:39 và Gamalien trong Tông Đồ Công Vụ 5,34; 22.3.
Họ hoàn toàn đối nghịch với Chúa Giêsu vì Chúa có ảnh hưởng lớn nơi dân chúng. Chúa vạch trần thói giả hình xấu xa của họ. Họ toa rập với nhóm Hêrôđê để tìm cách ám hại Chúa như trong Marcô 3:6. Nhóm Pharisêu tin sự sống lại sau khi chết như trong Tông Đồ Công Vụ 23,1-8. Bản thân Thánh Phaolô cũng là Pharisêu như Ngài tự nhận trong thư gửi Giáo Đoàn Philipphê 3,5 và trong Tông Đồ Công Vụ 23,6 và 26,5.
Nhóm Ký lục hay luật sĩ
Đó là những người được học chuyên về luật và có ảnh hưởng trong việc giải thích luật và những nguyên tắc phải giữ trong đời sống. Thật sự họ không có khả năng tự lập mà phải lệ thuộc vào nhóm Pharisêu. Nên họ được coi như luật sĩ của nhóm Pharisêu như trong Phúc Âm Matcô 2,.16 hay Tông Đồ Công Vụ 23,9.
Phúc Âm Thánh Luca gọi nhóm người nầy là luật sĩ như trong Luca 7:30 và 10, 25 Còn Matcô và Matthêu gọi họ là ký lục. Cách chung, không quá đáng như Pharisêu, nhưng họ vẫn được xếp vào thành phần đố kỵ với Chúa Giêsu như trong Matcô 11,27.
Nhóm Thượng tế, Tư tế và Lêvi.
Phát xuất từ chi tộc Lêvi chuyên đặc trách chuyện tế tự, phượng tự và bảo quản đền thờ. Phúc Âm diễn tả nhóm người nầy vào số những người ganh tỵ và tìm cách ám hại Chúa Giêsu.
Nhóm Ái Quốc cực đoan:
Chống đối đế quốc Rôma thật mạnh mẽ và họ tin rằng Thiên Chúa sẽ ban Đấng Cứu Thế đến để tiêu diệt Rôma. Simon, một trong những môn đệ của Chúa Giêsu được gọi là Simon nhiệt thành, là người thuộc nhóm nầy.
Ngoài ra cũng có một vài nhóm khác như nhóm Hêrôđê, được thành lập để bảo vệ Hêrôđê Antipa, toàn quyền Galilê và Pêrê từ năm thứ 4 trước Công nguyên cho đến năm 39 sau Công nguyên.
Những nhóm vừa kể trên, nhất là nhóm Pharisêu rất nặng thói háo danh, giả hình và phô trương. Đang khi họ cố dò xét, lùng tìm những sai sót của Chúa để ám hại Chúa. Họ không thấy gì! Chúa lại thấy rõ những sai sót và thói hư tật xấu nơi họ, nhất là thói háo danh “Ai cũng muốn ngồi chỗ nhất!” Không phải vì chỗ nhất ăn ngon hơn mà vì chỗ đó danh dự hơn. Chỗ ngồi là danh dự. Chỗ ngồi và người ngồi cái nào quan trọng hơn? Có câu chuyện kể về một người chủ nhà mở một bữa tiệc và mời nhiều người đến dự. Trong số khách đến dự có một học giả nổi tiếng tên là Daniel. Khi Daniel đến, chủ nhà mời ông ngồi bàn trên. Nhưng Daniel từ chối và nói rằng ông muốn ngồi chung với những người bình dân nghèo hèn. Sau Daniel còn có nhiều khách lần lượt đến. Ai cũng giành ngồi bàn trên và những bàn gần phía trên. Chỉ có cái bàn tận cuối cùng, bàn của Daniel đang ngồi là còn trống chỗ. Sau cùng, ông thị trưởng đến. Vì không còn ghế trống ở bất kỳ bàn nào khác nên chủ nhà buộc lòng mời ông thị trưởng ấy đến ngồi bàn cuối chung với bàn của Daniel. Vị thị trưởng thắc mắc: nhưng đây là bàn cuối cùng mà! Chủ nhà nhanh trí đáp: Thưa không, đây là bàn danh dự vì là bàn có ông Daniel đang ngồi. Vị thị trưởng hết thắc mắc và ngồi vào chỗ chủ nhà chỉ. Ý nghĩa câu chuyện là: Không phải chỗ ngồi làm cho người ngồi được vinh dự, ngược lại, chính người ngồi làm cho chỗ ngồi được vinh dự.
Như vậy, thực chất của con người không là chỗ nhất nơi bàn tiệc nhưng là con người đích thực của mình: Khiêm tốn nhìn nhận sự thấp hèn nơi mình để Chúa sẽ cất nhấc người đó lên chỗ nhất. Chỗ nhất được Chúa dành cho con người có giá trị đích thực mới làm cho con người được vinh dự trước mặt Chúa và người khác. Nên chỗ nhất không làm con người có giá trị. Tên ăn trộm hay người bất lương cũng có thể ngồi chỗ nhất trong đám tiệc. Nhưng chỗ đó không làm họ hết bất lương. Trái lại người công chính và đạo đức sẽ làm cho chỗ ngồi thấp hèn thành chỗ nhất trong bàn tiệc thiên quốc.
2. Vô thần là kiêu ngạo
Vô thần là chối bỏ sự hiện hữu của Thiên Chúa như Chúa là: Đấng Tạo Hóa, hay Đấng cứu độ nhân loại. Vô thần là duy vật: Mọi sự chỉ là vật chất, cả tình yêu nam nữa, tình thương của Cha Mẹ dành cho con cái cũng chỉ là một thứ thăng hoa của vật chất như bông hoa đẹp trên cành hoa cũng chỉ đến từ bùn đất phân bón mà thôi. Như vậy vô thần là kiêu ngạo: Chối bỏ Đấng hóa công, Đấng tạo dựng nên vũ trụ và cả con người và ỷ lại vào khả năng giới hạn của mình. “thằng Trời đứng dẹp một bên, để cho thủy lợi đứng lên làm Trời!”
Vô thần là kiêu ngạo và ngu xuẩn: Kiêu ngạo là ngạo mạn, hỗn láo, phạm thượng và ngu xuẩn. Người vô thần chối bỏ Thiên Chúa và những giá trị tinh thần như tình cảm gia đình hay tình nghĩa vợ chồng.
Vô thần là kiêu ngạo và vô nhân. Mạng sống con người thật quí báu và cần phải được tôn trọng, nhưng đối với người vô thần, mạng sống con người hay chính bản thân con người cũng chỉ là kết quả của hành động giao cấu giữa nam nữ. Nên vô thần là phi nhân, tức không nhìn nhận giá trị đích thực của con người: Con cái của Thiên Chúa, được sinh ra để hưởng hạnh phúc thiên đàng đời sau. Vô thần: Tất cả là duy vật, tức vật chất và thú vật. Tất cả được sản xuất như một sản phẩm vật chất.
III. Thực hành Phúc Âm:
- Khiêm nhường (Đức Cha Bùi Tuần)
Sống đạo đòi nhiều nhân đức. Bởi vì sống đạo thì phải sống đức. Một trong những nhân đức cần để sống đạo là đức khiêm nhường. Khiêm nhường ví như một thứ muối thiêng. Nếu các nhân dức ví được như những món ăn nuôi dưỡng tâm hồn, thì nhân đức nào cũng cần có chút muối thiêng đó. Trái lại, kiêu ngạo là một thứ thuốc độc. Việc lành nào bất cứ, nếu bị pha một chút thuốc độc kiêu ngạo vào, tất sẽ ra hư. Có thứ khiêm nhường thật. Có thứ khiêm nhường giả.
Khiêm nhường giả. Khiêm nhường giả thường là một hình ảnh mơ tưởng tự tạo. Coi khiêm nhường như một vinh quang, kết quả của những cố gắng tự sức. Để rồi có cớ nảy sinh tự đắc, lợi dụng trên đường danh lợi. Thỉnh thoảng người ta soi mình vào hình ảnh tự tạo đó, để tìm thích thú và thèm muốn được khen. Nếu không cảnh giác, thì thứ khiêm nhường giả như thế sẽ rất nguy hiểm. Vì nó sẽ dễ trở thành thứ nọc độc có thể pha trộn vào mọi ý hướng đạo đức. Để rồi, sau cùng họ dùng việc đạo để tìm vinh quang ảo cho mình, từ những việc nhỏ đến cả những việc lớn bề ngoài mặc vẻ đạo đức. Hành trình của nó thường mang nhiều giả dối và mưu lược.
Khiêm nhường thật. Trái lại, khiêm nhường thật thường phải trải qua những hành trình có nhiều phấn đấu. Phấn đấu với chính mình. Phấn đấu với lối sống cạnh tranh xấu của thế gian. Nhất là phấn đấu với ma quỉ, loại kẻ thù có nhiều xảo quyệt. Satan vốn bị Kinh Thánh coi là cha của kiêu ngạo, luôn tìm cách phá đức khiêm nhường. Chính Chúa Thánh Thần tác động, làm nên sự khiêm nhường thật. Có thể nhận ra bằng những dấu chỉ này: Con người cảm nhận sâu sắc mình yếu kém, hèn hạ. Họ rất thành thực nhận mình tội lỗi. Họ xem mình như người thu thuế cúi đầu cầu nguyện. Thực sự nghèo nàn. Thực sự khốn khó. Thực sự khiêm tốn: “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi” (Lc 18,13).
Sự cầu nguyện cậy trông Chúa phát xuất từ ơn Chúa cùng với sự cảm nhận sức mình yếu đuối. Ơn cậy trông đến dần dần một cách lặng lẽ, và kéo linh hồn về với Chúa một cách rất tế nhị. Nó làm cho linh hồn cảm thấy mình không ngừng cần phải đổi mới, để đón nhận được ơn cậy trông lôi kéo đó thường xuyên. Từ sự cậy trông lôi kéo đó, linh hồn khát khao tìm kiếm chính Chúa. Sự gặp gỡ Chúa sẽ đem lại cho họ sự sám hối, tâm tình cảm tạ và thờ phượng. Đồng thời, khi gần gũi Chúa, họ cảm thấy mình gần gũi mọi người. Có một tâm tình đồng cảm linh thiêng. Họ thấy mình chẳng có gì đáng gọi là đạo đức. Họ thấy mọi người đều là những người yếu đuối, nhưng được Chúa xót thương đỡ nâng tha thứ. Với cảm nghiệm đó, họ nhận ra mình có bổn phận phục vụ mọi người, người công chính cũng như người tội lỗi yếu đuối, theo gương Cha trên trời, là “Đấng cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính” (Mt 5,45). Vài hoa trái của khiêm nhường.
Như vậy, sự khiêm nhường thật sẽ đem lại cho người sám hối sự bình an và hoan lạc. Sự khiêm nhường, khi đúng là hoa quả của ơn Chúa Thánh Thần, sẽ không gây nên những ray rứt dằn vặt cho ta, dù ta có một quá khứ đầy lỗi lầm. Những dằn vặt bối rối này nhiều khi do ma quỉ khuấy lên, để ta không nhận ra được dung mạo đầy tình yêu thương xót của Cha nhân lành, Đấng vui mừng sung sướng, khi có dịp tha thứ cho những đứa con biết trở về. Sự khiêm nhường thật cũng đem lại cho con người tâm tình vâng phục Lời Chúa một cách đơn sơ tin tưởng, cho dù dư luận muốn kéo họ về hướng khác. Thí dụ: về việc bố thí, làm việc từ thiện, cầu nguyện và ăn chay, Chúa Giêsu dạy hãy làm kín đáo.
Vì Cha trên trời, Đấng hiện diện nơi kín đáo thấu suốt mọi sự kín đáo sẽ trả công cho họ (Mt 6,16-18). Họ vâng lời Chúa, cho dù nhiều cám dỗ giục làm khác đi. Sự khiêm nhường thật cũng thường gây cho chúng ta được ý thức tự trọng chính đáng, và nhận thức được bổn phận tìm cách khéo léo giúp các người thuộc về mình sống trong sự thực một cách khiêm nhường.
Thú thực là riêng tôi cũng đang phải phấn đấu từng giờ với nhiều khó khăn tinh thần và thể xác, để có thể nói như thánh vương David: “Chúng xô đẩy tôi, mong tôi té ngã. Nhưng Chúa đã phù trợ thân này. Chúa là sức mạnh tôi, là Đấng tôi ca ngợi, chính Người cứu độ tôi” (Tv 118,13-14). Tôi mong rằng: Những gì tôi vừa chia sẻ sẽ được coi là những hạt giống nhỏ về Tin Mừng mùa chay. Tôi xin phép được gieo rắc chúng trong một thời điểm đang có những chân trời chinh chiến đau buồn, mang nhiều đe doạ khủng khiếp cho cả phần hồn phần xác. Ta hãy nhìn lên Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thánh giá. Hãy xem Người khiêm nhường thế nào và khiêm nhường đến mức nào. Người đang dạy chúng ta: “Hãy học với Thầy, vì Thầy có lòng hiền lành và khiêm nhường” (Mt 11,29). Chúng ta cũng tin vào Lời Chúa phán xưa: “Chúng con hãy tỉnh thức, vì chúng con không biết ngày nào giờ nào” (Mt 25,13). Sau cùng, chúng ta đừng quên lời thánh Phêrô: “Anh em hãy lấy đức khiêm nhường mà đối xử với nhau. Vì Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường” (1 Pr 5,5).
- Tránh sử dụng những từ ngữ kiêu ngạo và gây dị ứng khó nghe.
CHÚNG ÔNG: Tôi không nghĩ rằng bản thân tôi và bất kỳ ai có cảm tình hay thích nghe người khác, nhất là người miền Bắc Việt Nam nói chuyện và xưng là chúng ông. Từ “chúng ông” diễn tả người kém học thức và kém hiểu biết cũng như thiếu tôn trọng người khác. Ai có quyền cho mình lên hàng ÔNG của người khác? Tương tự với CHÚNG ÔNG là CHÚNG TỚ hay CHÚNG HẮN. Tôi không nghĩ là những xưng hô nầy có thể thuyết phục hay gây cảm tình với người khác.
CỰC KỲ: đây là một tĩnh từ ở thể so sánh tối thượng cấp, tức tuyệt đối hay không còn thứ nào khác sánh bằng. Thí dụ thay vì nói tòa nhà đồ sộ, nguy nga thì người ta nói: Cực kỳ nguy nga, cực kỳ đồ sộ. Từ ngữ cực kỳ cũng thường phát xuất từ người kém học. Thử hỏi xem: Người nói tòa nhà cực kỳ nguy nga đã biết được bao nhiêu tòa nhà trên thế giới để cho rằng những tòa nhà trên thế giới không còn có thể so sánh với tòa nhà mình đang mô tả là cực kỳ nầy.
HOÀNH TRÁNG: Nó đến từ chữ huy hoàng và tráng lệ hay qui mô và lộng lẫy. Từ hoành tráng nghe kêu nhưng thật xáo rỗng. Làm gì có một buổi khoản đãi hoành tráng hay một buổi diễn xuất văn nghệ hoành tráng như người Việt Nam hay nói bây giờ? Cách chung, những từ ngữ quá lớn lao trên đến từ người miền Bắc Việt Nam, nơi mà người ta hay dùng sự phô trương quá đáng để che đậy một thực chất quá khiêm tốn và bần cùng. Nơi mà “người làm thì đói mà người nói thì no!”
Kinh nghiệm tuổi đời dạy cho tôi rằng:
Nhiều lời không thu hút. Không ai thích người nói nhiều.
Ít lời, và lời lẽ khiêm tốn, nhẹ nhàng sẽ dễ lọt tai thính giả và có sức thuyết phục.
Giông bão thường phá sập! Gió mát hiu hiu làm lòng người thư thái bình an.
Quát mắng, lớn tiếng là xua đuổi. Êm ái, dịu dàng và khiêm tốn sẽ lôi cuốn!