Bài giảng Chúa Nhật XVI thường niên – Năm C.
Matta đón Chúa vào nhà,
Lăng xăng dọn dẹp lo trà dọn cơm.
Cố gắng hầu tiếp thật xôm,
Maria vô sự ngồi ôm chân Thầy.
Lắng nghe lẽ thiệt điều hay,
Matta nóng máu liền quay hỏi Thầy:
Thầy thấy con bận như vầy,
Mà sao không bảo nhỏ nầy giúp con!
Matta! Tội nghiệp thân con!
Băn khoăn lo lắng, đa đoan trăm điều.
Quên đi phần tốt hơn nhiều:
Lắng nghe Lời Chúa, là điều ưu tiên.
Maria say đắm lời thiêng,
Lời Chúa, sức sống, thuẫn khiên cuộc đời.
Xin cho con mãi nhớ Lời,
Tìm giờ lắng đọng, ơn Trời mưa sa. Amen.
CHÚA NHẬT XVI QUANH NĂM – C.
Sách Sáng Thế Ký 18.1-10;
Thư Thánh Phaolô gửi tín hữu Côlôxê 1.24-28
và Phúc Âm Thánh Luca 10.38-42
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca
Trong khi thầy trò đi đường, Đức Giê-su vào làng kia. Có một người phụ nữ tên là Mác-ta đón Người vào nhà. Cô có người em gái tên là Ma-ri-a. Cô này cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người dạy. Còn cô Mác-ta thì tất bật lo việc phục vụ. Cô tiến lại mà nói : “Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao ? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay !” Chúa đáp : “Mác-ta ! Mác-ta ơi ! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá ! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Ma-ri-a đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi.”
Đó là Lời Chúa! – Lạy Chúa Kitô, ngợi khen Chúa!
I. Giáo huấn Phúc Âm:
Ngồi bên chân Chúa và lắng nghe Lời Chúa: Đó là một chọn lựa tốt nhất và không bị mai một.
Đời sống cầu nguyện cần thiết để hành động đúng ý Chúa.
Cầu nguyện trợ lực cho hoạt động.
II. Diễn giải Phúc Âm:
1. Câu chuyện hai chị em Matta và Maria trong các Phúc Âm.
Maria có nghĩa: Người đàn bà khôn ngoan hay nhiều khi chỉ đơn giản là người đàn bà. Maria trong tiếng Do Thái gọi là Miriam hay Mariam.
Ladarô có nghĩa: Chúa đã ra tay giúp đỡ.
Câu chuyện hai chị em gái mang tên Matta và Maria làng Bêtania được tường thuật trong các Phúc Âm khác nhau:
Chúa đến thăm hai chị em cô Matta và Maria như trong Phúc Âm Luca 10, 38-042 hôm nay. Chúa bị cô Matta trách cứ vì để cho cô em Maria ngồi bên cạnh lắng nghe Lời Chúa mà không phụ giúp chuyện dọn bữa cho Chúa và các môn đệ. Nhưng Chúa lại dạy rằng: Maria đã chọn phần tốt nhất. Ở đây, chúng ta không thấy đề cập tới tên Ladarô.
Hai chị em Matta và Maria trong Phúc Âm Gioan 11,1- 44 sai người đến báo tin là bạn của Chúa là Ladarô bị bịnh nặng. Chúa đến muộn, Ladarô đã chết và đã chôn trong mồ bốn ngày rồi. Nhưng Chúa đã cho Ladarô sống lại và ra khỏi mồ. Qua đó Chúa muốn mạc khải rằng: Chúa là sự sống lại và là sự sống.
Maria làng Bêtania xức dầu thơm trên chân Chúa được tường thuật trong Phúc Âm Gioan 12, 1-8. Phúc Âm tường thuật rằng: Matta, Maria và Ladarô mời Chúa dùng bữa tối. Đang khi ăn thì Maria đã xức dầu thơm hạng đắt tiền trên chân Chúa, lấy tóc mình mà lau. Cả phòng sực nức mùi thơm, đến nỗi Giuđa phải lên tiếng là “phí quá! Phải chi đem bán cũng được ba trăm đồng bạc mà bố thí cho người nghèo. Phúc Âm cũng tường thuật là: Có đông người đến xem, không chỉ vì Chúa Giêsu, nhưng còn muốn chứng kiến tận mắt Ladarô được phục sinh và đang ăn uống với Chúa.
Đa số các nhà chú giải Phúc Âm đều đồng ý: Matta, Maria và Ladarô là ba chị em cùng một gia đình ở làng Bêtania, không xa Giêrusalem lắm. Chúa và các môn đệ hay tới lui với gia đình nầy.
Ladarô chính là người Chúa đã cho sống lại sau khi đã chết chôn bốn ngày trong mồ được tường thuật trong Phúc Âm Gioan 11,1-44. Ông cũng chính là người ngồi dùng bữa với Chúa được tường thuật trong Phúc Âm Gioan 11,1-8.
Matta chính là người đã cằn nhằn Chúa “Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ mà Thầy không để ý tới sao?” Matta cũng chính là người khi nghe tin Chúa đến làng thì ra đón và nói rằng: “Nếu Thầy có mặt ở đây thì em con đã không chết!” như tường thuật trong Phúc Âm Gioan 11,1-44. Matta cũng chính là người đã can ngăn Chúa đừng cho mở tảng đá lấp mộ ra vì: “Thưa thầy Ladarô đã chết bốn ngày rồi và đã nặng mùi!”.
Tuy nhiên, nhiều người cho rằng Maria trong Phúc Âm Luca hôm nay khác với:
Người phụ nữ có tiếng xấu được tường thuật trong Phúc Âm Luca 7, 7-39. Phúc Âm không nêu tên người phụ nữ. Bữa tiệc nầy xảy ra ở nhà ông Simon Biệt Phái. Người phụ nữ xức dầu nơi chân Chúa. Rồi Chúa kể dụ ngôn hai người thiếu nợ, một người thiếu nhiều và một người thiếu ít. Cả hai không có gì trả, nên đều được tha… Chúa kết luận: Chúa là Thiên Chúa, Chúa có quyền tha tội.
Việc xức dầu thơm cũng được tường thuật trong Matthêô 26,6-13 và Matcô 14,3-9, xảy ra ở làng Bêtania, nhưng nhà ông Simon tật phung. Người phụ nữ nầy không được nêu tên và chị ta xức dầu thơm trên đầu Chúa (Mat. 26,7) chứ không phải trên chân Chúa như trong Phúc Âm Gioan và Luca.
Maria trong bài Phúc Âm Luca hôm nay, ngồi bên chân Chúa để lắng nghe lời Ngài cũng chính là Maria đã không ra đón Chúa khi Chúa đến làng Bêtania, sau khi Ladarô chết bốn ngày. Maria hôm nay cũng chính là Maria đã xức dầu trên chân Chúa, lấy tóc lau, nhưng không có khóc hay lấy nước mắt mà rửa chân Chúa như trong các Phúc Âm khác.
Cách chung: Truyền thống Công Giáo nhìn nhận có một Maria thôi.
Maria truyền thống Chính thống giáo cho rằng có 2 Maria khác nhau:
Maria của Bêtania chính là Maria Madalêna. Maria Madalêna cũng là người phụ nữ mang tiếng xấu.
Maria của Bêtania chính là Maria trong Phúc Âm hôm nay: Ngồi bên chân Chúa và lấy dầu thơm xức chân Chúa, lấy tóc mình lau. Còn Maria mang tiếng xấu là Maria Madalêna, người xức dầu thơm, khóc lấy nước mắt rửa chân và lấy tóc lau.
2. Sao Maria ngồi bên chân Chúa và nghe Lời người dạy lại là người chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi? Tốt nhất so với cái gì và sao lại sẽ không bị lấy đi?
Bản văn tiếng Việt đang xử dụng nói: “Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi!”.
Bản văn tiếng Anh: “Mary has chosen a better part, which will not be taken away from her” – Mary đã chọn phần tốt hơn.
Bản văn tiếng Pháp cùng nghĩa với tiếng Anh; “Marie a choisi la meilleure part: Elle ne lui sera pas enlevée” Mary đã chọn phần tốt hơn.
Ý nghĩa không có gì khác nhau giữa tốt hơn, trong bản dịch tiếng Anh và tiếng Pháp hay tốt nhất trong bản văn tiếng Việt. Tuy nhiên, cách so sánh tốt hơn để nói lên so sánh giữa tông đồ cầu nguyện và tông đồ hoạt động. Còn “tốt nhất” là so sánh tối thượng cấp, có ý nói tốt hơn hết mọi chuyện. Không sai, nhưng không cụ thể như đang so sánh giữa hai cái tốt: tông đồ cầu nguyện và tông đồ hoạt động. Việc tất bật chuẩn bị bữa ăn là chuyện tốt và cần, nhưng không tốt và cần cho bằng so với việc lắng nghe Lời Chúa.
Chúa thật tình không có ý bảo Matta: Bỏ ngay việc bận bịu lo chuẩn bị cơm tối đi! Đến ngay đây nghe Lời Chúa. Nếu như thế Chúa và các tông đồ sẽ không có cơm ăn ban tối. Chúa chỉ muốn cho một so sánh: Lắng nghe Lời Chúa hay chuẩn bị ăn tối đều tốt và cần, và việc tồng đồ cầu nguyện cần hơn và ưu tiên hơn tồng đồ hoạt động. Vì lắng nghe Lời Chúa, tức tiếp xúc với Chúa và sống mật thiết với Chúa thì mới nhận ra việc gì phải làm, làm thế nào và qui hướng việc làm về Chúa.
Thật vậy: Nhiều người quá bận bịu và vất vả lo việc hoạt động tông đồ để rồi sinh ra cáu giận, nóng tính và xúc phạm đến người khác. Hoạt động tông đồ mà lại không khiêm tốn, thiếu hiền lành và mất bác ái. Cũng có nhiều người quá hăng say trong hoạt động tông đồ mà mất hướng hay sau cùng qui hướng về lợi lộc hay ích kỷ cá nhân. Cũng có những người lăn xả hoàn toàn vào việc xã hội sau cùng không còn giờ dâng lễ, nguyện gẫm hay cầu nguyện. Người ta hay dùng từ vào đời hay dấn thân giúp đời để diễn tả hoạt động tông đồ nầy.
Thí dụ: Phong trào linh mục thợ ở Pháp năm 1950 đã đưa gần 2.000 linh mục ra khỏi giáo xứ và hoạt động mục vụ. Đa số đã không quay lại với đời sống linh mục độc thân và với công việc mục vụ giáo xứ.Vì quá bận bịu, họ không còn giờ đọc kinh, nguyện gẫm và dâng lễ và mất dần nhiệt tâm làm linh mục.
Tại sao “sẽ không bị lấy đi!”? Muốn lấy đi cái gì phải có cái gì để lấy. Người sống đời nội tâm, chuyên cầu nguyện và sống mật thiết với Chúa thì họ không có sở hữu một thứ gì cả. Họ không có gì cả: Không của cải, không chức quyền danh tiếng, không tìm lợi cho bản thân. Họ chỉ có Chúa và công việc của Chúa thì không ai tranh giành hay bon chen tước đoạt Chúa với họ. Ở đây chúng ta hiểu được thánh vịnh 16 nói: Chúa là gia nghiệp đời con. Người sống đời nội tâm, chọn Chúa làm gia nghiệp là chọn phần tốt nhất và không ai lấy Chúa là gia nghiệp đi được.
3. Khái niệm về thần học giải phóng ở phát xuất từ Nam Mỹ?
Thần học Giải phóng, nhấn mạnh đến công bình xã hội, xây dựng trên nền tảng Công Giáo phát xuất ở Nam Mỹ năm 1950 nhằm đương đầu với chủ nghĩa Marxism đang chinh phục giới thợ thuyền và công nhân nghèo ở Âu Châu.
Thần học Giải phóng được phát triển mạnh vào năm 1968 và hầu hết các Giám mục, linh mục ở Nam Mỹ đều bị chinh phục bởi chủ trương chống bất công xã hội do giới cầm quyền thời bấy giờ. Đến năm 1980 từ chóp bu Giáo Hội như Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cũng ủng hộ và vận động cho Thần học Giải phóng nguyên thủy dựa trên căn bản Kinh Thánh Công Giáo để chủ trương nhân quyền và chống bất công, bênh vực người nghèo. Tuy nhiên Thần học Giải phóng không làm cách mạng giải phóng lật đổ giai cấp địa chủ bóc lột của Marxism. Thần học Giải phóng dựa vào Kinh Thánh Công Giáo chủ trương: Tất cả mọi người, khác chủng tộc, màu da hay ngôn ngữ đều là con Thiên Chúa, có giá trị nhân phẩm và quyền làm người ngang nhau. Không chấp nhận chế độ chủ nô theo hình thức mới là giới cầm quyền lợi dụng quyền hành, cấu kết với giới giàu có bóc lột dân nghèo như ở Nam Mỹ.
Phong trào Thần học Giải phóng phát triển đến Bắc Mỹ trong giới người da đen. Nên chúng ta thấy xuất hiện Thần học Giải phóng người da đen. Tuy nhiên, ở Bắc Mỹ, thần học giải phóng nghiêng chiều về chủ trương bạo động của Marxism nhằm đấu tranh giai cấp đầy bạo lực. Nó mất hẳn tinh thần thần học giải phóng lúc khởi thủy nhằm dùng Kinh Thánh xác định giá trị con người và chống bóc lột từ giai cấp cầm quyền giàu có. Hiện tại Phong Trào Thần học Giải phóng do Công Giáo chủ trương đã bị biến chất sang hoạt động đấu tranh chính trị và bị giới Công Giáo kém quan tâm và đặt thành vấn đề ý nghĩa thần học của nó: Nghiêng chiều về hoạt động chống bất công xã hội gần như toàn bộ và lơ là chuyện tông đồ cầu nguyện.
Đức Tổng Giám Mục Óscar Roméo của El Salvador, Nam Mỹ có thể nói là chứng nhân và cũng là nạn nhân của Thần Học Giải Phóng nguyên thủy nầy. Năm 1979 Ngài lên tiếng bênh vực nhân quyền của người nghèo trước phong trào giải phóng do chính quyền tổng thống Junta chủ trương. Năm 1980 Ngài biên thư cho Tổng Thống Mỹ, Jimmy Carter chống đối việc đem quân đội ủng hộ chính quyền El Salvador lúc bấy giờ. Ngài kêu gọi quân đội phải thể hiện tinh thần Công Giáo bằng cách không tuân phục chính quyền để áp bức người nghèo. Ngài bị bắn chết đang khi dâng Thánh lễ tại La Divina Providencia ngày 24 tháng 3 năm 1980. Những hình chụp ghi lại là máu Ngài hoà chung với Máu Thánh Chúa trên bàn thờ.
III. Thực hành Phúc Âm:
1. Người cầu nguyện thường nói ít:
Quang cảnh chùa Phật Giáo thường hơi tĩnh mịch và âm u một chút, nhưng cũng thường rất yên lặng và mang vẻ siêu thoát. Thường vừa bước qua cổng chùa chúng ta thấy mái chùa nằm im, phủ rong rêu, dưới những tàng cây to rợp bóng. Vào chùa, người ta không thấy nhiều ánh sáng, nhưng mờ ảo linh thiêng. Không nghe tiếng người thuyết giảng ồn ào hay tiếng cầu kinh tập thể, nhưng nghe tiếng đại hồng chung vang từng nhịp cách khoảng, chậm, đều, trầm lắng.
Cảnh chùa tĩnh mịch, im lặng và siêu thoát. Khung cảnh của qui tâm, của xét mình, của suy niệm.
Những đan viện kín hay chiêm niệm của Công Giáo cũng rất chú trọng vào sự thinh lặng và yên tĩnh nầy. Dòng kín có nhiều nữ tu Việt Nam ở Dolbeau Mistassini, Québec, thật yên tĩnh và thoát tục. Đan viện các Cha dòng Xitô ở Rouge-Mont Québec cũng thật là nơi lý tưởng để chiêm niệm và cầu nguyện. Dòng Nữ tỳ Chúa Giêsu và Đức Mẹ ở Gatineau, nơi Soeur Cêcilia Thanh Thi tu, cũng thật yên lặng. Mình Thánh Chúa bày ra suốt ngày đêm và quí nữ tu thay phiên nhau chầu Thánh Thể và cầu nguyện cho linh mục suốt ngày và đêm. Đan viện Bênêdictô ở Mission, BC., cũng là nơi lý tưởng của âm thầm, của cầu nguyện và tu hành.
Người cầu nguyện thường chuộng nơi yên tĩnh, tiêu pha nhiều giờ trong yên lặng và nhất là ít nói.
Thật không có gì khó chịu cho bằng khi gặp một linh mục hay một tu sĩ nam nữ mắc bệnh “thích nói!” ba hoa lắm lời nhiều khi rỗng tuếch. Họ giành nói và nói liên tục, nói nhiều lời và nhiều chuyện. Nói nhiều, thường không chỉ là dấu của đời sống thiếu nội tâm và cầu nguyện nhưng còn sẽ dễ bị vướng những sai sót trong lời ăn tiếng nói. Nói nhiều quá, tức ít giờ lắng nghe. Ít lắng nghe, tức ít học hỏi hay ít suy niệm. Thường người nói nhiều, kiến thức không đủ rộng và đánh mất cơ hội lắng nghe và học hỏi. Nói nhiều che đậy một nội tâm trống rỗng.
2. Cầu nguyện, nghề của tôi (trích Đường Hy Vọng của Đức Hồng Y FX. Nguyễn Văn Thuận)
118. Hoạt động không cầu nguyện là vô ích trước mặt Chúa. Máy móc tự động có thể làm hơn con.
119. Thứ nhất cầu nguyện, thứ hai hy sinh, thứ ba mới đến hoạt động.
120. Cầu nguyện là nền tảng của đời sống thiêng liêng. Lúc cầu nguyện con nối liền, kết hợp với Thiên Chúa. Bóng điện sáng nhờ nối liền với máy phát điện.
121. Con tin lời cầu nguyện toàn năng không? Hãy suy lời Chúa: “Thày nói thật với các con, hãy xin sẽ được, hãy tìm sẽ gặp, hãy gõ cửa, sẽ mở.” Có công ty bảo hiểm nào bảo đảm cho chắc chắn hơn lời ấy không?
122. Bí quyết nuôi dưỡng đời sống Kitô hữu là cầu nguyện. Không cầu nguyện, dù có làm phép lạ, con cũng đừng tin.
123. Con hãy cầu nguyện luôn luôn bất cứ ở đâu. Chúa Giêsu đã nói: “Hãy cầu nguyện không ngừng.”