Sau hai ngày vào phòng giam số 5, tại cây Gừa, tôi và vài chị em cùng chuyến vượt biên được phân công làm việc đan lá mây tre, thành những chiếc rổ để xuất khẩu.
Chiếc lồng chim, (tên do tôi đặt) được vây bằng lưới B40 và đặt giữa sân của trại giam, trên lợp lá, gió lộng tứ bề, mát mẻ, tôi thấy thích được làm việc hơn, thay vì ở trong phòng. Được biết có tất cả 5 tàu đánh cá Thái đã xâm phạm hải phận VN để đánh cá và họ bị bắt vào đây, các thủy thủ đều bị nhốt trong 5 phòng giam, riêng các thuyền trưởng, họ được đi lại thoải mái trong giờ hành chánh. Các ông bị bắt vào đây trước chúng tôi vài tháng. Chiếc lồng chim này, là nơi các ông thích đến nhất vì có bóng mát, có gió và có những con chim, thật tội nghiệp đang lặng lẽ làm việc cho quên ngày tháng Tôi đã gặp Pradith và 4 người thuyền trưởng khác tại đây, các ông đều mặc áo sơ mi màu sáng và quấn xà rông với hoa văn đậm thay cho quần tây, tôi nhớ đến những tên cướp biển Thái Lan khiến tôi ghê sợ. Tôi không tránh ánh mắt của ông mà còn tỏ thái độ chẳng có chút thiện cảm. Vài ngày sau đó, tôi được một anh thủy thủ là đầu bếp của tàu ông, mang đến cho tôi đủ thứ, khi thì: 2 trái khóm to, khi thì 1 hộp cá kèo kho, lúc khác thì là 1 quầy chuối sứ vừa chín tới…anh để phía ngoài lồng chim, chỗ tôi ngồi, thoạt đầu tôi không chắc là cho mình nên không dám lấy, sau đó, một chị tù lâu năm, biết tiếng Thái, chị nói: ” của ông thuyền trưởng tặng chị đó, chị cứ tự nhiên cầm về “.
Sau đó, tôi còn có thêm: 2 thau và 1 can nhựa lớn chứa nước để dùng riêng, những quà tặng cách thiết thực này, đối với thân phận tù đày lúc đó, còn quý hơn vàng, nhưng tôi vẫn bị những ám ảnh về chuyện hải tặc Thái Lan hãm hại các phụ nữ trên những chiếc ghe vượt biên mong manh của người Việt..tôi nhận quà và chia sẻ với các bạn tù nhưng chưa bao giờ tôi tỏ thái độ biết ơn hay nói một lời cám ơn! Dù vậy, ông vẫn kiên trì học tiếng Việt từ một anh tù lâu năm. Ông và tôi bắt đầu có những trao đổi bằng tiếng Việt, thân quen hơn so với trước kia.
Hôm nay, cả trại giam như mở hội, cửa các phòng giam được mở ra. Chúng tôi tụ họp trong khoảng sân trống, cạnh lồng chim, để nghe danh sách được trả tự do, cho những người tù vượt biên. Tôi và Hằng nhảy mừng khi nghe đọc tên mình. Tôi quay người để vào phòng, thu xếp hành lý, ánh mắt tôi dừng lại ở góc khuất, Pradith đang đứng đó, ông gật đầu ra dấu cho tôi đến gần và trên tay cầm một giỏ đệm. Tôi đến gần (lần đầu tiên, trong suốt hơn 3 tháng, giữa chúng tôi, không có thanh chắn). Pradith nâng giỏ đệm lên và nói: ” Của Thu”. Tôi cầm lấy và nhìn vào giỏ: một cái áo len, màu đỏ đậm. Pradith lấy ra từ túi áo, một gói giấy trắng, mở ra: trước mặt tôi là 3 tượng Phật bằng ngà voi , chiều cao mỗi tượng này cỡ đốt ngón tay, ông nói: “Nếu có đi vượt biên nữa, thì cầm cái này theo, gặp bất cứ tàu Thái nào, cứ đưa cho họ, họ sẽ giúp đỡ”. Tôi xoè tay đón lấy 3 tượng Phật, dáng ngồi xếp bằng trên toà sen, tờ giấy trắng gói 3 tượng Phật là lá thư viết bằng chữ Thái, ông có ghi địa chỉ của ông ở góc trái, góc mặt ông ký tên. Pradith im lặng, trong khi tôi cúi nhìn vào lá thư, khi ngẩng mặt lên, tôi thấy những giọt nước mắt đang từ từ rơi dọc xuống cánh mũi Pradith .. tôi chết lặng một lúc, rồi xách giỏ đệm chạy về phòng…
…Cho đến lúc này, tôi biết có nhiều người nghĩ về ông theo nhận xét riêng, cũng như tôi, đã từng nhìn ông với những xét đoán đầu tiên, đầy ác cảm! Nhưng ngày nay, với tôi, ông là một hải tặc đầy lòng nhân ái, một hải tặc tốt nhất mà tôi may mắn được gặp. Tất cả những quà tặng qua ông, là lòng thương xót vô biên mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta: ” Ta đói, các con đã cho ăn, ta khát các con đã cho uống, ta rách rưới, các con đã cho mặc, ta tù rạc các con đã viếng thăm”.
Khi Pradith trao vào tay tôi ba tượng Phật, lúc chia tay đó, ông khóc vì mất đi con chim nhỏ, trong chiếc lồng được vây bằng lưới B40. Giờ nó bay cao vào chiếc lưới khác, lồng lộng của đất trời, ông đã nhìn thấy những bất trắc hiểm nguy, cao vượt khỏi vòng tay với của ông. Ông đã trao cho tôi ba vị Chúa của ông, mà ông Tin sẽ phù trợ cho tôi, ở những bước đường cam go khác. Nếu lúc đó, khi nhìn thấy những giọt nước mắt của ông, tôi đã lặng đi vì sự xúc cảm tự nhiên của con người. Thì giờ đây, chính tôi đang khóc, bởi sự hổ thẹn từ chính mình. Qua thái độ đạo đức của ông, tôi thấy được cách sống đạo khô khan, nguội lạnh của mình. Thiên Chúa qua Pradith đã mở mắt cho tôi thấy, tôi yếu đuối như thế nào, từ những xô ngã của sóng biển, tôi tưởng mình có đủ sức để đứng lên? Tôi đã tự đặt mình ngồi lên chiếc ghế của vị thẩm phán, để rồi nhìn anh em mình mà đặt lên họ, đủ thứ tội danh: cướp biển, cướp cạn, hải tặc..và kéo theo bao nhiêu kiêu ngạo vì khinh chê, xét đoán người khác. Ba tượng Phật của ông, cho tôi nhớ lại vị CHÚA BA NGÔI của tôi, tôi đã không mang theo Ngài trong suốt quảng đường của đời mình, tôi tưởng mình mạnh mẽ lắm, không cần đến bất cứ sự phù trợ nào ???
Và Thiên Chúa, với lòng nhân ái vô biên, đã đến với tôi như thế, trong trại giam, để cứu chữa con chiên đang dần hư mất này. Qua Pradith, Thiên Chúa đã trao chính Ngài cho tôi. Trong bàn tay xoè ra, tôi được đón nhận Ngài cách thương yêu và tình cờ nhất. Rồi từ ngày đó, cách nay gần 30 năm, THIÊN CHÚA đã sống lại trong tôi. Thiên Chúa đã thực sự PHỤC SINH trong tôi, như thế cảm ơn ông, Pradith, tình yêu của tôi…